Với tôn chỉ “nhân đạo và nhân ái” (humanitarian and compassionate), chính sách Di trú Canada đặt ưu tiên cho việc đoàn tụ gia đình dưới các dạng bảo lãnh hôn nhân (kèm/không kèm con phụ thuộc) ngang hàng với bảo lãnh con nuôi. Các dạng bảo lãnh hôn nhân, thật ra, không chỉ bao gồm vợ/chồng mà còn hai “đối tượng” đặc biệt là common-law partner và conjugal partner.

  1. Common-law partner: mặc dù không phải tỉnh bang nào ở Canada cũng công nhận và/hoặc có định nghĩa riêng về common-law partnership, ở cấp độ liên bang, Canada Revenue Agency (CRA) công nhận mối quan hệ này trong việc tính thuế còn Immigration, Refugees and Citizenship Canada (IRCC) cho phép bảo lãnh theo common-law partner dưới Family Class.

Định nghĩa: ““common-law partner” means, in relation to a person, an individual who is cohabiting with the person in a conjugal relationship, having so cohabited for a period of at least one year.” (S.1.1, IRPR)

Nói đơn giản, một công dân hay thường trú nhân Canada có thể bảo lãnh công dân nước ngoài là người mình đã sống chung ít nhất một năm mà không cần phải kết hôn. Tất nhiên việc bảo lãnh dưới dạng này sẽ đòi hỏi nhiều bằng chứng về mối quan hệ hơn dạng bảo lãnh vợ/chồng.

 

  1. Conjugal partner (“như vợ chồng”): khác với một số nước, Luật Di Trú Canada không công nhận “hôn thê” (người có ý dịnh kết hôn) mà thay bằng “conjugal partner”, định nghĩa: ““conjugal partner” means, in relation to a sponsor, a foreign national residing outside Canada who is in a conjugal relationship with the sponsor and has been in that relationship for a period of at least one year. ”. (S.2, IRPR). (Chỉ có IRCC công nhận định nghĩa này ở Canada).

Nói đơn giản, môt công dân hay thường trú nhân Canada có thể bảo lãnh công dân nước ngoài khi hai người yêu nhau ít nhất một năm, muốn sống chung nhưng gặp ngăn trở về pháp luật (nước sở tại không chấp nhận hôn nhân đồng giới hoặc cấm ly dị) hay các rào cản khác như tôn giáo hoặc sắc tộc hoặc nội chiến… dẫn đến việc hai người không thể kết hôn cũng như sống chung với nhau (ít nhất) một năm để thoả mãn điều kiện cơ bản để được công nhận là common-law partner. Việc cung cấp đủ bằng chứng để có thể bảo lãnh dạng này cũng không hề đơn giản. Tuy nhiên, đây là giải pháp thích hợp cho các bạn LGBT.

 

Lưu ý:

  1. Như vậy ngoài bảo lãnh vợ/chồng, công dân hay thường trú nhân Canada có thể bảo lãnh common-law partner và conjugal partner (kèm/không kèm con phụ thuộc) dưới Family Class, không có “bảo lãnh “bạn trai/bạn gái/hôn thê…”
  2. Chỉ có công dân Canada mới có thể bảo lãnh công dân nước ngoài theo dạng vợ/chồng hoặc common-law partner hoặc conjugal partner (kèm/không kèm con phụ thuộc) KHI ĐANG SỐNG NGOÀI Canada VÀ phải cho thấy họ sẽ quay lại sinh sống ở Canada khi (các) người được bảo lãnh trở thành thường trú nhân.

 

© Eric Lam

+1 (778) 725-1071 – go@ericlaminc.ca)

[Vui lòng ghi rõ nguồn khi chia sẻ và xem phần Miễn trừ trách nhiệm nội dung ở chân trang]